Bán chè thái nguyên,chè suối giàng

Lối thoát nào cho ngành chè Việt?

Có diện tích trồng chè lớn, XK không hề nhỏ nhưng bao năm nay giá XK chè của Việt Nam vẫn “đì đẹt” ở Top cuối trên thế giới. Đẩy mạnh hình thức hợp tác công-tư (PPP), trong đó nhấn mạnh vào nâng cao chất lượng chè đang được coi là giải pháp quan trọng giúp ngành này nâng cao sức cạnh tranh.


Vùng trà nguyên liệu
Yếu cố hữu
Theo Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT): Năm 2013, diện tích chè cả nước là 135,3 nghìn ha, giá trị XK cả năm tương đương năm 2012 đạt 222 triệu USD. Trong 4 tháng đầu năm 2014, khối lượng XK chè ước đạt 33 nghìn tấn với giá trị đạt 51 triệu USD, giảm 13,2% về khối lượng và giảm 10,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Điều đáng nói là, hiện nay giá XK chè của Việt Nam đang ở mức thấp nhất trên thế giới.
Tại Hội nghị phát triển chè bền vững do Bộ NN&PTNT tổ chức cuối tháng 4 vừa qua, ông Phạm Đồng Quảng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) đánh giá: Bao năm nay, ngành chè tồn tại nhiều hạn chế chưa tháo gỡ nổi. Đó là quy mô sản xuất nhỏ, bình quân khoảng 0,2 ha/hộ nên rất khó tiếp cận các thiết bị kỹ thuật mới và chứng nhận chè an toàn. Đầu tư cơ sở hạ tầng còn hạn chế, chè có tưới mới chiếm khoảng 7% diện tích cả nước, chưa phát huy được tiềm năng của giống mới (chiếm đến 54% diện tích cả nước). Nhiều cơ sở chế biến được cấp giấy phép xây dựng, nhưng không có vùng nguyên liệu; trình độ tay nghề chế biến thấp, chất lượng chè không cao. “Một trong những điểm yếu của ngành chè Việt còn là cơ cấu sản phẩm chè chủ yếu là chè đen OTC, CTC, cơ cấu chè xanh, chè ô long, chè chất lượng cao còn hạn chế, các DN cũng chưa xây dựng được thương hiệu chè. Điều này dẫn tới giá XK chè của Việt Nam thấp, giá trị gia tăng rất hạn chế”, ông Quảng nói.
Đồng tình với quan điểm trên, ông Nguyễn Hữu Tài-Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam nhấn mạnh: Vướng mắc lớn nhất trong phát triển ngành chè hiện nay chính là việc chưa quy hoạch cụ thể, rõ ràng vùng nguyên liệu cho từng DN. Quyết định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trước đây về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng có đề cập tới nội dung này, nhưng không được thực hiện trong ngành chè. Tại các địa phương, nơi làm, nơi không, dẫn tới tình trạng có xã, cùng một vùng nguyên liệu mà được cấp phép cho tới 5 nhà máy cùng khai thác. Hiện nay, ngoại trừ DN Nhà nước, rất ít DN tư nhân chịu đầu tư vùng nguyên liệu riêng và DN cũng không hỗ trợ nông dân vấn đề vùng nguyên liệu vì sợ rằng đầu tư xong lại có DN khác chấp nhận trả giá cao hơn thu mua chè thì đầu tư “xôi hỏng bỏng không”.
Nhanh chóng lập Ban điều phối
Cục Trồng trọt cho biết: Định hướng phát triển tới năm 2020, diện tích chè cả nước sẽ ổn định khoảng 140 nghìn ha, rà soát và điều chỉnh quy hoạch sản xuất gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ. Phát triển các giống chè mới năng suất, chất lượng cao thay thế các giống chè cũ, thúc đẩy phát triển chè bền vững. Đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, gia tăng giá trị trong sản xuất chè.
Bộ trưởng Cao Đức Phát nhận định, muốn phát triển bền vững, đạt được các mục tiêu đề ra, đẩy mạnh hợp tác công - tư (PPP) trong ngành chè là giải pháp quan trọng. Điều này được Bộ NN&PTNT lưu ý từ lâu và từ tháng 1-2014, Dự án Phát triển ngành chè bền vững được thực hiện theo phương thức PPP giữa Bộ NN&PTNT với Tập đoàn Unilever cũng đã chính thức đi vào hoạt động. Dự án kỳ vọng tăng sản lượng chè Việt Nam XK thông qua việc giúp nông dân trồng chè và nhà máy sản xuất chè được chọn lựa đạt tối thiểu 4.0* ở chỉ số về chất lượng. Mục tiêu cụ thể là tăng sản lượng chè Việt Nam đạt chứng nhận Raiforest Alliance được thu mua bởi Unilever lên 30.000-35.000 tấn vào năm 2020.
Ông Flavio Corsin, Giám đốc chương trình Việt Nam của Tổ chức Sáng kiến thương mại bền vững  (IDH) Hà Lan cho rằng: Để phát triển bền vững, ngành chè Việt cần học tập ngành cà phê, nhanh chóng thành lập Ban điều phối. Trong đó, có sự tham gia của cơ quan quốc gia, ưu tiên các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, NN&PTNT và cấp tỉnh, đại diện các địa phương có diện tích chè lớn.
Bên cạnh đó, nhiều nhà máy có hiệu quả sản xuất hạn chế (nhà máy xếp loại C) nên bị cảnh báo, được tập huấn để nâng cấp lên loại A, B. Nếu các nhà máy này không đạt được loại A, B trong vòng 6 tháng kể từ khi nhận được cảnh báo thì nên bị đóng cửa. Đặc biệt, nhà máy chất lượng thấp, dưới tiêu chuẩn không nên được cấp phép sản xuất chè tại Việt Nam, đặc biệt là XK.
Liên quan tới vấn đề này, Bộ trưởng Bộ NN&PTTN Cao Đức Phát đã yêu cầu Cục Trồng trọt, ngay trong tháng 5 phải nghiên cứu, trình đề xuất để Bộ trưởng ký phê duyệt thành lập Ban Điều phối ngành chè Việt Nam. Điều quan trọng là, Ban Điều phối lập ra sẽ nhanh chóng vận hành, hoạt động hiệu quả, góp phần tích cực vào quản lý phát triển bền vững ngành chè chứ không chỉ lập ra cho có lệ. Đồng thời, Cục Trồng trọt cũng cần nhanh chóng rà soát lại gói kỹ thuật canh tác trong ngành chè để đảm bảo các yêu cầu quốc tế, làm sao để chè mua của nông dân được thị trường NK chấp nhận.
“Song song với đó, Cục Bảo vệ thực vật phải rà soát lại danh mục thuốc bảo vệ thực vật dùng cho cây chè. Danh mục này đã ban hành vài năm nay, giờ phải rà soát kỹ lưỡng, bổ sung các loại thuốc mới có hiệu quả cao, đảm bảo an toàn thực phẩm”, Bộ trưởng Cao Đức Phát nhấn mạnh.

0 comments:

Post a Comment